Thứ hai, 18/01/2016 | 7:07
NCL
xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc cuốn "Vần và Tứ trong thơ"
của nhà giáo- nhà thơ Đỗ Đình Tuân. Có thể coi đây là một cuốn cẩm nang
hết sức cần thiết đối với những người yêu thơ và đang tập làm thơ.
VÀI NÉT VỀ THƠ TỨ TUYỆT*
Thơ tứ tuyệt là thể thơ ngắn (đoản thi). Nhưng cũng chưa phải là loại
thơ ngắn nhất. Trong kho tàng thơ ca dân gian có loại thơ chỉ có một
câu, hai câu. Thơ Hai ku của Nhật Bản thì chỉ có 3 dòng và 17 chữ. Thơ
tứ tuyệt có nguồn gốc từ Trung Quốc. Chữ tứ (四)có nghĩa là 4. Còn chữ
tuyệt (絕) lại có thể hiểu là hết làchấm dứt, cũng có thể hiếu là cắt ra là cực kỳ đều được cả. Cũng như nhiều thể thơ khác thơ tứ tuyệt ra đời từ lâu rồi và ban đầu có lẽ nó cũng chỉ có nghĩa là bài thơ có bốn câu thôi.
Mãi đến thời Đường người ta mới quy chuẩn và luật hóa nó theo với thể
thơ Bát cú. Từ đấy mới xuất hiện quan niệm cho rằng thơ tứ tuyệt là được
cắt ra từ bài thơ bát cú. Vì thế mà thơ tứ tuyệt phải có cấu trúc theo
một trong bốn dạng dưới đây:
1-Nếu cắt lấy bốn câu đầu của một bài bát cú nó sẽ có dạng một bài thơ bốn câu ba vần và hai câu cuối là một cặp đối. Chẳng hạn như bài bài Lắm quan của Tú Xương dưới đây:
Ở phố Hàng Nâu thật lắm quan
Thành thì đen kịt đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn
1-Nếu cắt lấy bốn câu đầu của một bài bát cú nó sẽ có dạng một bài thơ bốn câu ba vần và hai câu cuối là một cặp đối. Chẳng hạn như bài bài Lắm quan của Tú Xương dưới đây:
Ở phố Hàng Nâu thật lắm quan
Thành thì đen kịt đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn
2-Nếu cắt lấy bốn câu cuối của một bài bát cú ra nó
sẽ có dạng một bài thơ bốn câu hai vần và hai câu đầu là một cặp đối.
Chẳng hạn như bài Nhập Tĩnh Tây huyện ngục của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm
Thiên thượng tình vân trục vũ vân
Tình vũ phù vân phi khứ liễu
Ngục trung lưu trú tự do nhân
Nam Trân dịch thơ:
Trong lao tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa;
Tạnh, mưa, mây nổi bay đi hết,
Còn lại trong tù khách tự do.
Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm
Thiên thượng tình vân trục vũ vân
Tình vũ phù vân phi khứ liễu
Ngục trung lưu trú tự do nhân
Nam Trân dịch thơ:
Trong lao tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa;
Tạnh, mưa, mây nổi bay đi hết,
Còn lại trong tù khách tự do.
3- Còn nếu cắt lấy bốn câu giữa của một bài thơ bát
cú ra nó sẽ có dạng một bài thơ bốn câu hai vần và cả bốn câu là hai
cặp đối. Chẳng hạn như bài Thu tứ của Đỗ Phủ dưới đây:
Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu
Nhất hàng bạch lộ hướng thanh thiên
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
Môn bạc Ðông Ngô vạn lý thuyền.
Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu
Nhất hàng bạch lộ hướng thanh thiên
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
Môn bạc Ðông Ngô vạn lý thuyền.
Tàn Đà dịch thơ:
Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,
Một hàng cò trắng vút trời xanh.
Nghìn năm tuyết núi song in sắc,
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
4- Nhưng phổ biến nhất là dạng cắt lấy hai câu đầu ghép với hai câu cuối của một bài bát cú. Trong trường hợp này nó sẽ có dạng một bài thơ bốn câu ba vần và không có cặp đối nào. Chẳng hạn như bài Trăng thượng huyền dưới đây:
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không
Khuyết Danh
Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,
Một hàng cò trắng vút trời xanh.
Nghìn năm tuyết núi song in sắc,
Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
4- Nhưng phổ biến nhất là dạng cắt lấy hai câu đầu ghép với hai câu cuối của một bài bát cú. Trong trường hợp này nó sẽ có dạng một bài thơ bốn câu ba vần và không có cặp đối nào. Chẳng hạn như bài Trăng thượng huyền dưới đây:
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không
Khuyết Danh
Đỗ Đình Tuân tạm dịch:
Mồng ba mồng bốn trăng mông lung
Nửa giống câu vàng nửa cánh cung
Một mảnh mặt hồ chia ngắt giữa
Nửa chìm đáy nước nửa bầu không.
Mồng ba mồng bốn trăng mông lung
Nửa giống câu vàng nửa cánh cung
Một mảnh mặt hồ chia ngắt giữa
Nửa chìm đáy nước nửa bầu không.
Có lẽ dạng này là dạng đặc trưng và phổ biến nhất của thơ tứ tuyệt (còn
gọi là tuyệt cú) nên người ta còn đặt tên và giao nhiệm vụ cho từng câu
một. Lần lượt bốn câu ấy là Phá - Thừa - Chuyển – Kết. Thường thì hai
câu đầu là miêu tả sự vật, câu thứ ba là lời chuyển dẫn đến câu kết mới
là thần thái của bài thơ. Hãy đọc bài Mời trầu của Hồ Xuân Hương thì ta
sẽ rõ:
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá bạc như vôi
Toàn bộ sức nặng của bài thơ dường như nằm ở câu kết: “Đừng xanh như lá bạc như vôi”. Chỉ như một điều cầu mong, một lời giao hẹn thôi nhưng nằm ở phía này câu thơ có một lời trách móc và nằm ở phía bên kia câu thơ lại như có một nỗi niềm gì đấy khá ngậm ngùi chua xót.
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá bạc như vôi
Toàn bộ sức nặng của bài thơ dường như nằm ở câu kết: “Đừng xanh như lá bạc như vôi”. Chỉ như một điều cầu mong, một lời giao hẹn thôi nhưng nằm ở phía này câu thơ có một lời trách móc và nằm ở phía bên kia câu thơ lại như có một nỗi niềm gì đấy khá ngậm ngùi chua xót.
Ngày nay thì chúng ta lại trở lại cái quan niệm ban đầu của thơ tứ
tuyệt rồi. Nghĩa là thơ tứ tuyệt chỉ là thơ bốn câu thôi. Nó không nhất
thiết phải là thất ngôn hoặc ngũ ngôn như thơ Tuyệt cú Đường luật nữa. Nó có thể là thơ tự do, cũng có thể là thơ lục bát…Tôi xin dẫn ra đây vài ví dụ:
Áo đỏ
Áo đỏ em đi giữa phố đông,
Cây xanh như cũng ánh theo hồng.
Em đi lửa cháy trong bao mắt,
Anh đứng thành tro em biết không?
Vũ quần Phương
Cây xanh như cũng ánh theo hồng.
Em đi lửa cháy trong bao mắt,
Anh đứng thành tro em biết không?
Vũ quần Phương
Cánh buồm nâu
Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu ?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu ?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
Nguyễn Bính
Không đề
Ðưa người yêu qua nhà người yêu cũ
Rơi cơn mưa ban trưa
Thấy hồn mình tách thành hai nửa
Nửa ướt bây giờ, nửa ướt xa xưa.
Nguyễn Thụy Kha
Rơi cơn mưa ban trưa
Thấy hồn mình tách thành hai nửa
Nửa ướt bây giờ, nửa ướt xa xưa.
Nguyễn Thụy Kha
Dường như ở những bài thơ này các tác giả dù có ý thức
hay không nhưng tự nhiên họ vẫn nương theo cái cấu trúc Phá – Thừa –
Chuyển – Kết và sức nặng của chúng đều được dồn cả về câu kết.
Ghi chú: Thực ra bài này chưa in trong cuốn "Vần và Tứ trong
thơ" mà mới chỉ đăng trên blog cá nhân của TG Đỗ Đình Tuân, song chúng
tôi nhận thấy nó cũng có nội dung phù hợp với cuốn sách và rất hữu ích
với bạn đọc nên đưa vào đây cho liền mạch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét