Thứ Bảy,
ngày 08 tháng 1 năm 2011
Đỗ
Đình Tuân
Ăn
tết, mừng xuân đón năm mới là một nét sinh hoạt cộng đồng mang rất đậm bản sắc
văn hóa của người Việt ta. Ngay từ thời còn là huyền thoại và cổ tích ông cha
ta đã có những câu chuyện nói về tục ăn tết và đón xuân của người Việt như “Sự
tích ông Công, ông Táo”, “ Sự tích bánh chưng, bánh giày”, “Sự tích cây nêu
ngày tết”…Trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, tiếp đến là hàng nghìn năm độc lập
tự chủ về chính trị nhưng vẫn ảnh hưởng rất sâu đậm văn hóa Hán, Đến đầu thế kỷ
XX, nước ta lại rơi vào ách thống trị của người Pháp. Ảnh hưởng của văn hóa Tầu
nhạt dần, ảnh hưởng của văn hóa Tây đậm dần…Nhưng thực chất thì người Việt ta
chỉ có học tập tiếp thu văn hóa Tầu, học tập tiếp thu văn hóa Tây để tự đổi mới
và làm phong phú mình lên, chứ không hề đánh mất cái bản sắc văn hóa Việt, cái
hồn, cái cốt của người Việt Nam ta. Thơ Mới là một minh chứng rất rõ ràng về
điều này. Nhân dịp ăn tết, mừng xuân Tân Mão (2011) này, CLB thơ văn Cánh
Phượng (Một sân chơi thơ văn của Hội CGC thị xã Chí Linh) xin có một chương
trình TẾT VÀ XUÂN TRONG THƠ MỚI để chúng ta cùng nhau ôn lại và
thưởng lãm những vẻ đẹp vô cùng đặc sắc của Thơ Mới qua một số bài thơ tiêu
biểu.
1.Cái
tết có lẽ được bắt đầu trước
hết là ở phiên chợ tết. Thời ấy, chưa có ống kính Camera, nhưng có một ông giáo
làng tên là Đoàn văn Cừ, đã dùng cái cặp mắt hóm hỉnh của mình làm ống kính
và cái tâm hồn nhạy cảm của mình làm bộ nhớ ghi lại được hình ảnh một
phiên chợ tết cực kỳ sinh động, rất tươi, rất vui mà kết thúc vẫn vô cùng man
mác…Phiên chợ ấy họp bắt đầu từ lúc bình minh: “ Dải trắng đỏ dần trên đỉnh
núi” và kết thúc vào lúc hoàng hôn xẩm tối “ Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê/
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”. Đây là cảnh người kéo đến họp chợ:
Những thằng cu
áo đỏ chạy lon xon.
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ,
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ.
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu.
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ,
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ.
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu.
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.
Và đây là cảnh
mua bán chen chúc, ồn ã của phiên chợ:
Người mua bán ra
vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ dim hai mất ngủ,
Ðể lắng nghe người khách nói bô bô.
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán.
Một thầy khoá gò lưng trên tấm phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhầm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo.
Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra
Con trâu đứng vờ dim hai mất ngủ,
Ðể lắng nghe người khách nói bô bô.
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán.
Một thầy khoá gò lưng trên tấm phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhầm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo.
Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra
Những mẹt cam đỏ
chót tựa son pha
Thúng gạo nếp
đong đầy như núi tuyết.
Con gà trống mào
thâm như cục tiết
Một người mua
cầm cẳng dốc lên xem
Sau đây là toàn
văn bài thơ “Chợ Tết” của Đoàn Văn Cừ qua giọng ngâm…?
*
2.Cũng
trong bối cảnh ấy, nhưng
cảnh phố phường ngày tết trong thơ của nhà giáo Vũ Đình Liên lại khác hẳn:
không thấy có những hình ảnh tươi tắn , ngộ nghĩnh của đời sống thực tại như
trong thơ Đoàn Văn Cừ nữa. Phố vẫn “đông người qua” nhưng thời thế đổi
thay và lòng người cũng khác. Người ta mải mốt đi về phía hiện đại, không còn
nhu cầu “chơi chữ” như những “tết xưa” và hình ảnh những ông đồ “bán chữ” trong
ngày tết cứ ế ẩm dần, quên lãng hẳn… rồi không còn nữa. Bài thơ Ông Đồ của Vũ
Đình Liên gợi trong lòng ta một niềm xúc động đầy cảm thương, tiếc nuối, bâng
khuâng:
…
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngòai trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngòai trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
Sau đây là toàn
văn bài thơ “Ông Đồ” của vũ Đình Liên qua giọng ngâm…?
3. Nhưng cao trào nhất của ngày tết, vẫn là đêm ba mươi tết đón
giao thừa. Có lẽ khó có ai tả cảnh tết xưa trong đêm ba mươi lại khéo được như
nữ sĩ Anh Thơ. Giữa cái đêm trừ tịch tối đen như mực ấy, cảnh trang trí ngày
tết vẫn hiện ra: mờ mịt nhưng cũng khá rõ ràng: Tiếng khánh treo trên các
cây nêu ngày têt thì vẫn “khua thầm”. Những cung vôi vẽ trong sân nhà để phòng
quỷ đến thì như bị “mờ xóa”. Đến những tờ giấy điều dán cửa cũng “đen thâm”.
Cảnh mọi người trong nhà chờ đón giao thừa cũng được vẽ một cách rất tinh tế:
Tất cả đều ngái ngủ nhưng vẫn cố thức đợi. Xung quanh cái “bếp ấm, nồi bánh chưng
sùng sục” thằng cu thì “rụi mắt cố chờ ăn”; đĩ nhớn thì “mơ váy sồi đen nhức”
còn bà già lại “tính tuổi sắp thêm năm”...Đến khi có tiếng pháo nổ báo giao
thừa thì cả nhà như “bừng thức” “Cùng đứng lên thăm bánh chín hay chưa!”
Một cảnh đón tết còn khá háo hức và háu ăn, chưa no nê và dửng dưng như chúng
ta ngày hôm nay.
Sau đây là toàn văn bài Đêm ba mươi tết của nữ sĩ Anh thơ qua giọng ngâm…
4.Gắn liền với tết là mùa xuân.
Thơ mới có rất nhiều bài viết về mùa xuân thật hay và thật đẹp. Xuân
về của Nguyễn Bính có lẽ là một bức tranh xuân chân thực, sinh động và cũng
khá bao quát.Tất cả những đường nét, màu sắc vẽ nên bức tranh mùa xuân ở đây
đều đã từng có và rất quen thuộc. Vậy mà với xuân về nét nào, màu nào cũng cứ
tươi nguyên và mới mẻ. Chính điều này đã nói lên được vẻ đẹp và sức sống kỳ
diệu của mùa xuân.
Dưới đây là bài thơ xuân về của nguyễn bính qua giọng ngâm…
5.Huy Cận cũng cảm nhận được cái sức sống kỳ diệu ấy của mùa xuân. Nhưng
với Ý Xuân, ông lại miêu tả nó na ná như một đêm tình. Tất cả đều nhẹ
nhàng êm ái nhưng đầy âu yếm “Đêm vừa nhẹ, gió vừa mơn”. Tất cả đều mới mẻ
nhưng mong manh, say nồng mà e ấp…Để cuối cùng nó căng đầy và si mê.
Sau đây là bài thơ Ý Xuân của Huy cận qua giọng ngâm…
6. Xuân Diệu lại cảm nhận mùa xuân một cách thật ồn ã. Tâm hồn Xuân Diệu
giống như một thấu kính hội tụ, nên màu nét nào của cuộc sống soi vào cũng được
tập trung lại và nâng lên đến tột đỉnh.Trong cái buổi đầu xuân mà xuân Diệu cho
là “êm ái thế” thì cũng được ông gợi ra bằng những âm thanh “inh ỏi tiếng chim
vui”, bằng thứ ánh sáng “chói mặt trời”. Gió thì cũng cứ vô ý bả lả “đem đụng
cành mai sát nhánh đào”. Màu xanh của liễu thì cũng “quá mỹ miều”. Đến mầu hoa
cũng tươi đến không thể chịu được nên phải “thắm như kêu”…
Dưới đây là bài thơ Nụ cười xuân của Xuân Diệu qua giọng ngâm…
7. Mùa xuân cũng là mùa của lễ hội. mà tả cảnh những đám hội vui rộn rã
ngày xuân thì khó có ai sinh động hơn được Đoàn Văn Cừ. Dù là trong chương
trình này ông đã “hết tiêu chuẩn” tôi cũng xin điểm qua vài khổ thơ ông viết về
Đám hội: “Suôt ngày đêm chuông trống đánh vang rền/ Người lớn bé mê man về hát
bội”. Sau đó là cảnh “Tổ tôm điếm” Cảnh những đám rước kiệu… Cảnh đua thuyền,
thi vật:
Đoàn
trải dài vùn vụt giữa dòng sông
Người
lố nhố chèo trên làn nước lạnh
Bọn
đô vật trước đình thi sức mạnh
Mình
cởi trần gân cốt nổi như lươn
Tiếng
reo hò khuyến khích dậy từng cơn
Lẫn
tiếng trống bên đường khua rộn rã…
Đó
là những cảnh vui ngoài thế tục. Trong chốn thiền môn, mùa xuân về, rằm tháng
giêng tới cũng thật là nô nức. Bên cạnh những nét tâm linh thành kính, thơ mới
vẫn ý vị đưa vào những cái liếc tình le lói và rộ lên những tràng cười trêu
ghẹo. Ta sẽ thấy được tất cả những nét này trong bài thơ Đêm rằm tháng giêng
của nữ sĩ Anh Thơ sau đây qua giọng ngâm …
8.
Nhưng không phải cứ mùa xuân về thì
cái gì cũng vui, lúc nào cũng vui và ai ai cũng vui cả. Bởi vì niềm vui là một
thứ rất khó chia đều cho mọi cá nhân. Nam Cao từng triết lý : Hạnh phúc trên
đời giống như một tấm chăn hẹp, người nay kéo được thì người kia lại hở ra.
Nhất là trong lĩnh vực tình cảm riêng tư thì càng như thế và muôn đời như thế.
“Sự đời nghĩ cũng nực cười/ Một con cá lội mấy người buông câu”. Con cá lội ấy
dù đói mấy cũng chỉ có thể cắn được một cần câu thôi. Như vậy tất yếu sẽ có
người phải vác cần câu về không. Rượu xuân của Nguyễn Bính, nói về
cái nỗi buồn của một người phải về không như thế.
Cao
tay nâng chén rượu hồng
Mừng
em: em sắp lấy chồng xuân nay
Uống
đi! Em uống cho say
Để
trong mơ sống những ngày xuân qua.
Đây
tình duyên của đôi ta
Đến đây là…đến đây là…là thôi
Em đi dệt mộng cùng người
Lẻ loi chỉ một góc trời riêng anh.
Tôi xin mượn những câu thơ này để làm lời
kết thúc chương trình thơ ngày hôm nay với một thông điệp: Nếu ai có nỗi buồn
riêng tư thầm kín gì xin cứ trút cả vào trong thơ để cho thơ gánh hộ. Thơ xin
nhận cái phần công việc nặng nề này để chúng ta nhẹ lòng mà vui với với cuộc
đời. Xin chúc cho tất cả những người nghe thơ ngày hôm nay một mùa xuân gặt hái
nhiều may mắn và không ai phải vác cần câu về không cả.
9/1/2011
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét