LẶNG LẼ THƠ

NIỀN VUI NHẤT LÀ SỐNG KHỎE VÀ LÀM ĐIỀU THIỆN

Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016

Nguyễn Công Trứ chơi câu đối tết

Chủ Nhật, ngày 01 tháng 1 năm 2012

Nguyễn Công Trứ “chơi” câu đối tết

Đã sang tuổi “tam thập nhi lập” mà Nguyễn Công Trứ vẫn là “Bạch diện thư sinh”!Thêm một Tết lại đến, nhà nghèo không có tiền, nợ đáo hạn chưa biết lấy gì để trả, nhưng chàng thư sinh họ Nguyễn vẫn bảo vợ đi chợ sắm sửa ít món gì đó gọi là, còn tự mình quét dọn, trang trí nhà cửa cho có không khí Tết.
Đầu tiên chàng viết một đôi câu đối Nôm bằng chữ lớn trên tờ giấy đỏ:
Bầu một cái lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái;
Nhà ba gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn.
Tiếp đó chàng lại soạn một đôi câu đối bằng chữ Hán:
Tuế phùng Xuân, tân cảnh, tân thiều, tân vũ lộ;
Thời hành Hạ, cựu bang, cựu điển, cựu xa thư.
Nghĩa là:
Năm vừa gặp mùa Xuân, cảnh sắc mới, thiều quang mới,mưa móc mới;
Thời vẫn theo nhà Hạ, nước non xưa, điển chế xưa, sách vở xưa.
Dán xong hai câu đối, chàng lấy đàn ra gảy chơi để vui cửa vui nhà. Mấy người hàng xóm đi ngang qua nghe tiếng đàn, ghé vào nghe và hỏi thăm tình hình sắm sửa tết nhất của chàng. Đầu xứ Trứ lấy chai rượu con rót mời mọi người rồi chỉ quanh bếp còn trống trơn và hóm hỉnh đọc như phân bua:
Tết có cóc gì đâu, uống vài be củ tỏi
Nợ còn ư­ơng ra đó, nói ba chuyện cà riềng !
Sáng ngày mùng một Tết, chàng Đầu xứ khoan thai làm lễ cúng Nguyên Đán rồi cùng bạn bè người thân uống một bữa say s­ưa, và tức cảnh làm thêm hai câu đối nữa:      
Chiều ba mươi công nợ rối Nhâm Thìn, những muốn mười năm dồn lại một;
Sáng mùng một rượu chè tràn Quý Tị, trông cho ba bữa hóa ra mười.
Mọi người tấm tắc khen hay, bàn tán một hồi lâu, nhưng cũng có người ngậm ngùi than:
- Nhưng cám cảnh bà con mình lắm, cái mơ ước hão huyền ấy bao giờ mà có được đây! Ông Đầu xứ làm một câu nào cho khí thế hơn đi!
Đầu xứ Trứ nghiêng đầu nhìn người vừa nói, lẳng lặng lấy thêm tờ giấy đỏ, phóng bút viết luôn:
Chiều ba mươi công nợ tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa;
Sáng mồng một rượu chè tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà!
Nhưng muốn co cẳng đạp thầng Bần ra cửa đâu phải dễ, nói chi định bồng ông Phúc vào nhà!
Để đạt được ý nguyện ấy, không thể rong chơi tràn quý tị được. Qua mấy ngày Xuân tạm thời “xả láng” với vài be củ tỏi, ba chuyện cà riềng rồi, chàng Nho sinh Nguyễn Công Trứ lại vừa đi dạy học kiếm tiền độ nhật, vừa kiên trì sôi kinh nấu sử­ quyết trang trả món nợ th­ư trái cho phỉ chí tang bồng. Nhưng học thì học, chàng vẫn không quên tự trào bằng một đôi câu đối ngông nghênh mà ra nước mắt:
 Anh em ơi! Đã băm mấy tuổi rồi, khắp Đông Tây Nam Bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác;
Trời đất nhẽ! Quyết một phen nầy nữa, xếp cung kiếm cầm thi vào một túi, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh!
2/1/2012
Đỗ Đình Tuân
(Sưu tầm)
Được đăng bởi Đỗ Đình Tuân vào lúc 15:12
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên TwitterChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Người đăng: LẶNG LẼ THƠ vào lúc 07:52 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

Thứ Tư, 27 tháng 1, 2016

Vài ý về trò chơi câu đối

                          
Câu đối là một trò chơi ngôn ngữ mang tính chất truyền thống của Việt Nam nói riêng và những nước đồng văn ở phương đông nói chung (Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản). Trò chơi ngôn ngữ này có nhiều tác dụng trong việc trau dồi ngôn ngữ và năng lực vận dụng ngôn ngữ. Nhưng đã là trò chơi thì cũng chỉ nên vận dụng trong những dịp vui chơi nhất định thôi. Nhân dịp chuẩn bị đón xuân Nhâm Thìn, Tri Ân có sáng kiến thách đối mời cư dân trong xóm góp vui là một ý rất hay. Nhưng ra đối, thách đối thì dễ mà đối lại thì rất khó. Chả thế mà xưa nay có rất nhiều vế đối cả thiên hạ đều phải bó tay. Cho đến tận bây giờ vẫn còn treo lơ lửng đấy coi như những đề toán chưa có lời giải.
Trường hợp thư nhất là  giữa Cống Quỳnh và Thị Điểm. Lần ấy Cống Quỳnh đến thì bắt gặp Thị Điểm đang “tắm tiên”. Cống Quỳnh chắc cũng định vào “sí sớn”. Thị Điểm sẵn sàng “chiều ý” Cống Quỳnh với điều kiện đối được vế đối của Thị Điểm: “Da trắng vỗ bì bạch”. Cái ác hiểm của câu đối này  là “bì bạch” vừa có nghĩa là da trắng lại vừa là tiếng của bàn tay vỗ vào mông vào đùi bì bạch. Cái ngộ nghĩnh nghịch ngợm của Thị Điểm là vừa vỗ vừa mời Cống Quỳnh mà Cống Quỳnh đành chịu. Cố nhiên Cống Quỳnh là một người có văn hóa và tự trọng, chứ còn với những người không như Cống Quỳnh thì chị em nhà lành chớ có dại mà bắt chước Thị Điểm.
Trường hợp thứ hai là thuộc thời hiện đại. Một cô gái người Củ Chi đã táo bạo chỉ vào cái của một anh nào đấy mà hỏi: “Cô gái Củ Chi, chỉ cu hỏi củ chi?”. Rồi một thày giáo có tên là Trọng vô ý bị người ta phát hiện thấy cũng bị một tay Camera chụp luôn và đưa lên mạng: “Thày giáo Trọng, ngồi trên chõng, để quan trọng ra ngoài”. Tất cả những câu đối ấy tuy cũng có nhiều người đối lại nhưng nhìn chung chưa có lời đối tương xứng được với vế thách. Trong lịch sử duy nhất một lần Mạc Đĩnh Chi gặp trường hợp này mà ông vẫn thoát hiểm. Đó là lần đoàn sứ thần của ông đến Ải Nam Quan thì chiều đã muộn, cửa quan đã đóng, quan coi ải nhà Nguyên chỉ bằng lòng mở cửa cho đoàn sứ thần đi qua với điều kiện ông phải đối được vế đối của hắn ra: “Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan”( Đến cửa quan muộn, cửa quan đã đóng, mời khách qua đường qua cửa quan). Lần ấy Mạc Đĩnh Chi đã nhanh trí mà đối lại rằng: Xuất đối dị, đối đối nan, Thỉnh tiên sinh tiên đối”( Ra đối thì dễ, đối lại mới khó, mời tiên sinh đối trước). Cái khôn của Mạc Đĩnh Chi là đã đối lại bằng cách không đối lại.
Từ trường hợp của Mạc Đĩnh Chi, tôi đề nghị ai muốn thách đối như thế nào đó tùy ý, nhưng phải tự đối được thì hãy nên đi thách người khác. Còn nếu không đối được thì coi như mình tự thua mình. Phần giải thưởng đã hứa phải trao lại cho xóm Tri Ân để chung vui.
Cũng tiện đây mà tôi nói về cái vế thách đối của tôi mời cư dân xóm Tri Ân tham dự: “Tết túng tiền tiêu tìm tớn tác”. Cái hiểm của vế đối này chỉ là các từ phải chung một phụ âm đầu và hình tượng chung gợi ra là một hình tượng hài hước. Cái chung phụ âm đầu có thể mở rộng để đỡ bí cho người dự đối. Chẳng hạn: t = th = tr = ch; l = n;  x = s; k = c = q; d = gi = r… Còn đáp án tự đối của tôi với vế thách đối trên gồm có hai đáp án sau đây:
1.      Thày thừa thóc thết thấy thung thăng.
2.      Gà gầy gân gỡ gặm gay go.
12/12/2011
Đỗ Đình Tuân
Người đăng: LẶNG LẼ THƠ vào lúc 04:23 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

Thứ Hai, 18 tháng 1, 2016

Vần và Tứ trong thơ- 19

Thứ hai, 18/01/2016 | 7:07 
NCL xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc cuốn "Vần và Tứ trong thơ" của nhà giáo- nhà thơ Đỗ Đình Tuân. Có thể coi đây là một cuốn cẩm nang hết sức cần thiết đối với những người yêu thơ và đang tập làm thơ.
 
VÀI NÉT VỀ THƠ TỨ TUYỆT*
Thơ tứ tuyệt là thể thơ ngắn (đoản thi). Nhưng cũng chưa phải là loại thơ ngắn nhất. Trong kho tàng thơ ca dân gian có loại thơ chỉ có một câu, hai câu. Thơ Hai ku của Nhật Bản thì chỉ có 3 dòng và 17 chữ. Thơ tứ tuyệt có nguồn gốc từ Trung Quốc. Chữ tứ (四)có nghĩa là 4. Còn chữ tuyệt (絕) lại có thể hiểu  là hết làchấm dứt, cũng có thể hiếu là cắt ra là cực kỳ đều được cả. Cũng như nhiều thể thơ khác thơ tứ tuyệt ra đời từ lâu rồi và ban đầu có lẽ nó cũng chỉ có nghĩa là bài thơ có bốn câu thôi. Mãi đến thời Đường người ta mới quy chuẩn và luật hóa nó theo với thể thơ Bát cú. Từ đấy mới xuất hiện quan niệm cho rằng thơ tứ tuyệt là được cắt ra từ bài thơ bát cú. Vì thế mà thơ tứ tuyệt phải có cấu trúc theo một trong bốn dạng dưới đây:
          1-Nếu cắt lấy bốn câu đầu của một bài bát cú nó sẽ có dạng một bài thơ bốn câu ba vần và hai câu cuối là một cặp đối. Chẳng hạn như bài bài Lắm quan của Tú Xương dưới đây:
          Ở phố Hàng Nâu thật lắm quan
          Thành thì đen kịt đốc thì lang
          Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
          Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn
           2-Nếu cắt lấy bốn câu cuối của một bài bát cú ra nó sẽ có dạng một bài thơ bốn câu hai vần và hai câu đầu là một cặp đối. Chẳng hạn như bài Nhập Tĩnh Tây huyện ngục của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
           Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm
           Thiên thượng tình vân trục vũ vân
           Tình vũ phù vân phi khứ liễu
           Ngục trung lưu trú tự do nhân
           
Nam Trân dịch thơ:
           Trong lao tù cũ đón tù mới,
           Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa;
           Tạnh, mưa, mây nổi bay đi hết,
           Còn lại trong tù khách tự do.
           3- Còn nếu cắt lấy bốn câu giữa của một bài thơ bát cú ra nó sẽ có dạng một bài thơ bốn câu hai vần và cả bốn câu là hai cặp đối. Chẳng hạn như bài Thu tứ của Đỗ Phủ dưới đây:
            Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu
              Nhất hàng bạch lộ hướng thanh thiên
              Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
              Môn bạc Ðông Ngô vạn lý thuyền.
             Tàn Đà dịch thơ:
               Hai cái oanh vàng kêu liễu biếc,
             Một hàng cò trắng vút trời xanh.
             Nghìn năm tuyết núi song in sắc,
             Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình.
          
  4- Nhưng phổ biến nhất là dạng cắt lấy hai câu đầu ghép với hai câu cuối của một bài bát cú. Trong trường hợp này nó sẽ có dạng một bài thơ bốn câu ba vần và không có cặp đối nào. Chẳng hạn như bài Trăng thượng huyền dưới đây:
             Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
             Bán tự ngân câu bán tự cung
             Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
             Bán trầm thủy để bán phù không
                                                 
Khuyết Danh
              Đỗ Đình Tuân tạm dịch:
              Mồng ba mồng bốn trăng mông lung
              Nửa giống câu vàng nửa cánh cung
              Một mảnh mặt hồ chia ngắt giữa
              Nửa chìm đáy nước nửa bầu không.
Có lẽ dạng này là dạng đặc trưng và phổ biến nhất của thơ tứ tuyệt (còn gọi là tuyệt cú) nên người ta còn đặt tên và giao nhiệm vụ cho từng câu một. Lần lượt bốn câu ấy là Phá - Thừa - Chuyển – Kết. Thường thì hai câu đầu là miêu tả sự vật, câu thứ ba là lời chuyển dẫn đến câu kết mới là thần thái của bài thơ. Hãy đọc bài Mời trầu của Hồ Xuân Hương thì ta sẽ rõ:
              Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
              Này của Xuân Hương mới quệt rồi
              Có phải duyên nhau thì thắm lại,
              Đừng xanh như lá bạc như vôi
           
Toàn bộ sức nặng của bài thơ dường như nằm ở câu kết: “Đừng xanh như lá bạc như vôi”. Chỉ như một điều cầu mong, một lời giao hẹn thôi nhưng nằm ở phía này câu thơ có một lời trách móc và nằm ở phía bên kia câu thơ lại như có một nỗi niềm gì đấy khá ngậm ngùi chua xót.
Ngày nay thì chúng ta lại trở lại cái quan niệm ban đầu của thơ tứ tuyệt rồi. Nghĩa là thơ tứ tuyệt chỉ là thơ bốn câu thôi. Nó không nhất thiết phải là thất ngôn hoặc ngũ ngôn như thơ Tuyệt cú Đường luật nữa. Nó có thể là thơ tự do, cũng có thể là thơ lục bát…Tôi xin dẫn ra đây vài ví dụ:
             Áo đỏ
            Áo đỏ em đi giữa phố đông,
            Cây xanh như cũng ánh theo hồng.
            Em đi lửa cháy trong bao mắt,
            Anh đứng thành tro em biết không?

                                      Vũ quần Phương
              Cánh buồm nâu
             Hôm nay dưới bến xuôi đò
             Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
             Anh đi đấy, anh về đâu ?
             Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
                                          Nguyễn Bính
 
              Không đề
              Ðưa người yêu qua nhà người yêu cũ
              Rơi cơn mưa ban trưa
              Thấy hồn mình tách thành hai nửa
              Nửa ướt bây giờ, nửa ướt xa xưa.

                                          Nguyễn Thụy Kha
              Dường như ở những bài thơ này các tác giả dù có ý thức hay không nhưng tự nhiên họ vẫn nương theo cái cấu trúc Phá – Thừa – Chuyển – Kết và sức nặng của chúng đều được dồn cả về câu kết.
 

Ghi chú: Thực ra bài này chưa in trong cuốn "Vần và Tứ trong thơ" mà mới chỉ đăng trên blog cá nhân của TG Đỗ Đình Tuân, song chúng tôi nhận thấy nó cũng có nội dung phù hợp với cuốn sách và rất hữu ích với bạn đọc nên đưa vào đây cho liền mạch.
 
                                                                                            ĐỖ ĐÌNH TUÂN 

Người đăng: LẶNG LẼ THƠ vào lúc 12:38 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2016

Cảm hứng gia đình trong ca dao xưa

TRAO DOI TU TUONG is a Public Group with 369 members.

  • TRAO DOI TU TUONG

    • Public Group,
    • 369 members

Primary Navigation

  • Conversations
  • Photos
  • Files
  • More

Secondary Navigation

  • Help




 
  • Back
  • NextPrevious

DO DINH TUAN :Cảm hứng gia đình trong ca dao x ưa

Expand Messages
  • MY LOAN
    Message 1 of 1 , Nov 17, 2014
Cảm hứng gia đình trong ca dao xưa
Đỗ Đình Tuân
Trong xã hội tiểu nông cá thể ngày xưa, gia đình là một đơn vị sản xuất hoàn toàn "tự chủ hạch toán và kinh doanh". Hai nhân vật trung tâm của gia đình là người vợ và người chồng. Trong công việc làm ăn, hai nhân vật này luôn gắn bó bên nhau:
Sớm khuya có vợ có chồng
Cầy sâu bừa kỹ mà mong được mùa.

Cảnh làm ăn cầy cấy thời ấy còn vất vả, khó nhọc lắm, nhưng cũng thật vui:
Rủ nhau đi cấy đi cầy
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cầy vợ cấy con trâu đi bừa.

Qua thực tế lao động sản xuất, người nông dân thời xưa đã tích lũy được khá nhiều những kinh nghiệm sản xuất quý báu về cây, về con, về thời tiết, mùa vụ...Nhưng lạ nhất là ngay từ thời ấy, người nông dân cũng đã có ý thức bố trí cơ cấu cây trồng phù hợp với đất đai, thổ nhưỡng, và một phần nào đó đã ý thức muốn vượt ra cái khuôn khổ thuần nông để tăng thêm thu nhập. Ta hãy nghe cách tính toán làm ăn của một người phụ nữ:
Đất mầu trồng đậu, trồng ngô
Ruộng sâu cấy lúa, đất khô làm vườn
Ngày rồi em lại đi buôn
Quanh năm no ấm em buồn gì đâu ?

Ở trình độ sản xuất còn thủ công và manh mún thời ấy, đời sống vật chất của người nông dân xưa còn khá đạm bạc, nếu không nói là còn nhiều khó khăn thiếu thốn, nhưng họ vẫn chấp nhận và còn rất tự hào:
Hết chiêm lại đến vụ mùa
Hết mùa rau muống đến mùa cải hoa
Đừng khinh dưa muối tương cà
Tuy không lịch sự nhưng mà sạch trong.

Tự hào không phải về sự giầu có vật chất mà tự hào về lòng tự trọng và biết sống trong sạch. Chính nhờ nhưng phẩm chất này mà "văn hóa gia đình" của người nông dân xưa đã đạt đến những chuẩn mực mà cho đến nay vẫn còn có thể làm rung động và thức tỉnh chúng ta:
Đây là niềm vui của họ khi sinh con:
Có vàng vàng chẳng hay phô
Có con con nói trầm trồ đễ ưa.

Đây là nhận thức của họ về trách nhiệm nuôi dạy con cái:
Nuôi con chẳng dậy chẳng răn
Thà rằng nuôi chó cho ăn giữ nhà
Con hư tại mẹ tại cha
Cháu hư thì tại cả bà lẫn ông.

Còn đây thì lại là "mục tiêu và phương pháp" giáo dục của họ:
Có con thì phải dạy con
Dạy con nên khéo nên khôn mọi đàng
Lấy lời hơn thiệt bảo ban
Tìm câu êm ái nhẹ nhàng nhủ khuyên
Dậy con nên thảo nên hiền
Dậy cho em dưới anh trên thuận hòa.

Không nói tới việc "dạy chữ", nhưng "dạy làm người" trong các gia đình xưa thì khá thấm thía và hiệu quả. Cho nên con cái thời xưa đa phần thường hiếu thuận với cha mẹ. Đây là cử chỉ và tấm lòng trân trọng của một người con đang nuôi mẹ:
Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già

Còn đây là tình cảm của một người con đã xa mẹ:
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương.

Nhất là khi cha mẹ đã "khuất núi" thì tâm trạng chung của con cái là nhớ thương, tiếc nuói đến hụt hẫng:
Trông lên nhang tắt đèn mờ
Muốn nuôi cha mẹ bây giờ còn đâu.

Vẻ đẹp văn hóa trong các gia đình nông dân xưa tập trung biểu hiện ở chỗ họ coi trọng đời sống tình nghĩa, đời sống tinh thần hơn đời sống vật chất; họ coi trọng nhân phẩm con người hơn của cải. Ta hãy nghe tâm sự tự đáy lòng của một nàng dâu:
Chẳng thà ăn khế ăn sung
Gặp được mẹ chồng quý mến cũng vui
Còn hơn ăn thịt ăn xôi
Nghiến răng ken két làm tôi bực mình.

Trong một nền kinh tế tiểu nông, sản xuất chủ yếu nhằm tự cung tự cấp, người nông dân xưa thường rất tự hào về một gia đình đời sống vật chất tuy đạm bạc, nhưng thuận hòa trên kính dưới nhường, không phiền lụy ai, giữ tròn được đạo lý và phẩm cách:
Nhà em có vại cà đầy
Có ao rau muống có đầy chĩnh tương
Dầu không mỹ vị cao lương
Trên thờ cha mẹ dưới nhường anh em
Một nhà vui vẻ êm đềm
Đói no tùy cảnh chẳng thèm lụy ai.
Có lẽ chính cái vẻ đẹp văn hóa này đã tạo nên cái HƯƠNG SEN VIỆT "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" . Và đó cũng chính là một trong những nguồn năng lượng tinh thần để nuôi dưỡng và hun đúc nên nhân cách của con người Việt Nam xưa chăng ?


Show message history
Người đăng: LẶNG LẼ THƠ vào lúc 01:37 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

MỘT KỶ NIỆM THOÁNG QUA...


Tin Tức Mới Hằng ngày

Facebook

  • Home
  • Làm Đẹp
  • thời trang
  • sức khỏe
  • chăm sóc da
  • kiểu tóc đẹp

Home » Đỗ Đình Tuân » Góc thơ » TRUYỆN-KÝ » Kỷ niệm thoáng qua với Nguyễn Nguyệt Minh

Kỷ niệm thoáng qua với Nguyễn Nguyệt Minh

Posted by MIU TY
» Đỗ Đình Tuân, » Góc thơ, » TRUYỆN-KÝ
» Thứ Tư, ngày 12 tháng 2 năm 2014

 
    
Nguyễn Nguyệt Minh  về cõi Vĩnh hằng lúc 4h16' ngày 3/1/Giáp Ngọ tức 3/2/2014, hưởng thọ 65 tuổi
        
Hôm 5/6/2013, tôi có đăng bài thơ Triết lý vặt, trên trang blog của mình. Bài thơ ấy như sau:



Thời gian luôn chuyển đổi

Qua xuân lại sang hè…

Quay theo vòng nhật nguyệt

Cứ đi đi về về...



Đạo trời luôn biến dịch

Âm thịnh thì dương suy

Âm tiêu dương lại trưởng

Cũng về về đi đi...



Người thay nhau lớp lớp

Đời nọ sang đời kia

Cũng sinh sinh hóa hóa

Sao đi ...không thấy về ?

Để cho người cõi tạm

Mãi ôm sầu biệt ly ?



5/6/2013

          Đỗ Đình Tuân



Bài thơ này đã vinh dự được một độc giả tên là Nguyễn Nguyệt Minh để mắt tới và cho lời nhận xét, cũng viết dưới dạng một bài thơ, nguyên văn như sau:



NGUYỄN NGUYỆT MINH02:05 Ngày 06 tháng 06 năm 2013

" Người thay nhau lớp lớp
Đời nọ sang đời kia
Cũng sinh sinh hóa hóa
Sao đi ...không thấy về ?"
----
CÓ,ĐÃ ĐI LÀ LẠI VỀ
NHƯNG Ở VÀO KIẾP KHÁC
KHÔNG THOÁT VÒNG LUÂN HỒI
LÀ CHÚNG SINH SỐNG ÁC
_____
Mọi người sau khi thác
Muốn vào cõi VÔ SINH
VÔ SINH ắt VÔ DIỆT
Nơi đất PHẬT TỪ BI!


Thấy một cô gái tuy có tuổi nhưng khá hiền lành và nhũn nhặn, tôi bèn làm một bài thơ hỏi vặn để khiêu khích:

Đỗ Đình Tuân hỏi:

Thế thì phải làm chi
Để được vào cõi Phật
Để vô sinh, vô diệt
Để thoát kiếp luân hồi ?

Hưng Yên được mấy người
Hải Phòng bao nhiêu vị
Xin “trăng sáng” thử kể
Cho bỉ nhân được tường

Bỉ nhân sẽ lên đường
Theo người vào cõi Phật
Nhưng vô sinh vô diệt
Sống mãi có chán không ?

Ở trên cõi vô cùng
Có trò gì giải trí
Những khi nhớ trần thế
Có trở về được không?

Hỏi “Trăng sáng” mấy dòng
Để bỉ nhân được rõ
Xin cám ơn trước đó.

7/6/2013



Dù thế tôi vẫn được cô gái trả lời một cách rất cặn kẽ và đức độ:

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
An-be Anh Stein (CHA ĐẺ CỦA THUYẾT TƯƠNG ĐỐI) nói:
"Nếu ĐẠO PHẬT là "tôn giáo" thì đó là ĐÍCH THỰC,LÀ KHOA HỌC!"
(Bác có thể tìm hiểu thêm - vào GOOGLE: ĐẠO PHẬT).
***
NHÂN-QUẢ, không phải chỉ ĐỨC PHẬT nói, mà ông MARX-LENIN cũng nói.
NHÂN-QUẢ trước mắt: Bác yêu thương mọi người, mọi người sẽ yêu thương bác.
NHÂN - QUẢ cách quãng: Bác cứu một người sắp chết, (không mong họ trả ơn), nhưng bác hoặc con cháu sẽ thoát họa khác. Kẻ cậy quyền đi ăn cướp để xây nhà dựng cửa, kết cục chả ra gì.
Bác nhớ NGUYỄN VIỆT TIẾN không?
NHÂN - Quả nhiều kiếp hoặc vô lượng kiếp: nói hơi dài...
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
ĐỨC PHẬT không là THÁNH THẦN, KHÔNG SÁNG TẠO RA VŨ TRỤ, không cứu giúp được ai nếu ai đó KHÔNG TU LUYỆN.
Có câu: SỐNG GỬI, THÁC VỀ. Cõi VỀ là cõi VĨNH HẰNG, trên đời này "ba vạn sáu ngàn ngày là mấy chốc..."
Ruộng năm trăm mẫu, mỗi bữa ăn ba lưng bát cơm, nhà sáu trăm gian, mỗi đêm chỉ có thể ngủ một giường, vợ năm bảy bà, chả lẽ nằm chung!
ĂN ĐỦ, NGỦ ĐỦ, TU NHƯ ĐÃI CÁT LUYỆN VÀNG!
NAM MÔ BẢN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!
TỪ-BI-HỶ-XẢ. Tránh THAM-SÂN-SI!
QUY Y TAM BẢO bác nhé!
Cầu mong bác cùng toàn gia mọi sự AN LÀNH!



Từ đó tôi không thấy Nguyễn Nguyệt Minh trở lại trang nhà tôi nữa. Nhưng cách đây vài tuần trên trang “Hưng Yên quê mẹ”, tôi có thấy hình ảnh một đám tang rất trang trọng và xúc động. Nhưng thực tình tôi cũng chẳng biết người ấy là ai. Sau này xem kỹ lại tôi mới rõ đấy chính là Nguyễn Nguyệt Minh. Tôi bèn tìm lục lại dấu tích của người quá cố để tưởng nhớ và như một nén tâm hương để vĩnh biệt Người. Xin cầu mong cho Người được về nơi đất Phật từ bi.
12/2/2014

Đỗ Đình Tuân
Người đăng: LẶNG LẼ THƠ vào lúc 01:24 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2016

MẤY NGẪM NGHĨ VỀ CẤU TRÚC MỘT BÀI THƠ

Thứ Bảy, ngày 23 tháng 4 năm 2011


        
Muốn viết một bài thơ cho ra một bài thơ, cho thành thân một bài thơ thì trước hết phải chú ý đến cấu trúc một bài thơ. Đành rằng cái động lực ban đầu, cái búng đầu tiên khiến nhà thơ cầm bút lại chính là cảm hứng. Gần đây tôi có đọc được trên nội san thơ Người Cao Tuổi phường Sao Đỏ một bài thơ của bác Nguyễn Dương Quất bàn rất hay về vấn đề cảm hứng:
          Nhiều khi bỗng nói thành thơ
Vội vàng ghi lại không ngờ thành công
Khi mà cảm xúc khơi dòng
Tập trung vào viết dễ xong một bài
Khi mà không cảm không hoài
Suốt đêm trăn trở mà bài không ra ?
             (Lạ thay-Nguyễn Dương Quất)
Nhưng cảm hứng cũng có mặt trái của nó: dễ tùy tiện. Nếu chỉ bằng vào cảm hứng, thì cũng rất dễ bị sa đà, lan man, đầu ngô mình sở… Nó không thành bài thơ nữa, mà lại thành một “bãi thơ”. Có phế thải gì cũng đùn ra đấy tất. Cho nên trong khi làm thơ vẫn rất cần sự kiểm soát của lý trí, của trí tuệ, của sự hiểu biết. Suy cho cùng thì làm thơ cũng giống như nhiều công việc kiến tạo khác mà con người thường làm: tạo một dáng cây, xây dựng một ngôi nhà, sinh thành và nuôi dưỡng một đứa con…đều là cả một quá trình, đòi hỏi nhiều dụng công. Chưa kể còn cả sự may mắn và chờ đợi nữa. Có điều là quá trình ấy đa phần lại là những quá trình tích lũy ngầm. Ta không ý thức được về nó. Cho đến khi nó chín, nó đầy, nó phát lộ ra ta cứ có cảm giác như “của vớ được”. Nhưng thực ra không phải thế đâu. Tất cả đều là hồn vía, xương thịt, mồ hôi… của ta được trời sinh đất dưỡng mà có đấy. Cứ đọc những bài thơ của những cây bút già dặn kinh nghiệm, mà ngẫm nghĩ về “cấu trúc bài thơ” của họ ta cũng có thể rút ra được những bài học rất bổ ích. Sau đây chỉ là một vài ví dụ có tính chất gợi ý. Chẳng hạn như trong bài ĐÔI DÉP của Nguyễn Trung Kiên dưới đây:
Bài thơ đầu anh viết tặng em
Là bài thơ anh kể về đôi dép
Khi nỗi nhớ ở trong lòng da diết
Những vật tầm thường cũng viết thành thơ

Hai chiếc dép kia gặp nhau tự bao giờ
Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nửa bước
Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhung xuống cát bụi cùng nhau

Cùng bước cùng mòn không kẻ thấp người cao
Cùng chia sẻ sức người đời chà đạp
Dẫu vinh nhục không đi cùng người khác
Số phận chiếc này phụ thuộc chiếc kia

Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay thế đều trở nên khập khiễng
Giống nhau lắm nhưng người đời vẫn biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu

Giống như mình trong những lúc vắng nhau
Bươc hụt hẫng cú nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh sẽ có người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh

Đôi dép vô tri khắng khít song hành
Chẳng thề nguyền mà không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt cả đôi

Không thể thiếu nhau trên bước đường đời
Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải trái ,
Nhưng tôi yêu em vì những điều ngược lại
Gắn bó đời nhau vì một lối đi chung...

Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một là không còn gì hết
Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia...
Tất cả các câu thơ đều chỉ xoay quanh kể về chuyện ĐÔI DÉP. Nhưng Nguyễn Trung Kiên chỉ mượn hình ảnh ĐÔI DÉP để nói về mối quan hệ vợ chồng chung thủy giữa anh và em. ĐÔI DÉP là hình tượng trung tâm, tình yêu gắn bó thủy chung giữa vợ và chồng là chủ đề của bài thơ. Tuy có hơi nhiều lời, nhưng nó luôn luôn đi đúng khuôn khổ của hình tượng trung tâm và chủ đề của bài thơ. Nên cấu trúc của bài thơ rất chặt chẽ, gắn bó và hoàn chỉnh. Cấu trúc này đã đóng góp một phần không nhỏ cho sự thành công của bài thơ.
Hình tượng trung tâm cũng có thể là một hình tượng “ẩn” không được gọi tên ra. “Ẩn” thôi chứ không “bí”. “Ẩn” nhưng người đọc vần nhìn thấy, vẫn hiểu được. Chứ “bí” thì bài thơ sẽ thành “hũ nút” thách đố người đọc. Nó sẽ nhảy sang địa hạt của thơ hiện đại và hậu hiện đại chứ không còn là thơ truyền thống nữa. Ta có thể bắt gặp trường hợp này trong bài BÁI BIỆT KINH ĐÔ của Đỗ Đình Tuân:
Bái biệt kinh đô rộn trống cờ
Trở về núi Phượng cảnh nguyên sơ
Hôm mai trước cửa hoa chào đón
Sớm tối bên hiên nguyệt sẵn chờ
Tím ruột không dung phường lại nhũng
Bền lòng trông đợi cõi thiên cơ
Trên bàn gió sẽ lay trang sách
Thơm một âu trà mấy cuốn thơ.
Hình tượng trung tâm có khi chỉ tồn tại trong một câu thơ nhưng đại diện cho ý của toàn bài. Ta có thể gặp trường hợp này trong TỰ THÚ của Hữu Thỉnh:
Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu
Cây đổ về nơi không có vết rìu
Ôi hoa tặng, chiều nay ai dẫm nát
Mưa dập vỡ trên đường em trở gót

Người yêu thơ chết vì những đòn văn
Người say biển bị dập vùi trong sóng
Người khao khát ngã vì roi mơ mộng
Ta yêu mình tan nát bởi mình ơi.
Có thể xem hình tượng “Cây đổ về nơi không có vết dìu” là hình tượng trung tâm của bài thơ. Vì tất cả các hình tượng khác đều mang ý nghĩa tương tự,  đều chứa đựng ý chủ đề: Những bất trắc, không ngờ nhất trong cuộc đời lại là từ phía những người yêu, người bạn.
Lại có những hình tượng trung tâm vốn chỉ là một cách nói, một lối chơi chữ tài hoa và độc đáo mà thôi. VỪA ĐỦ của Trần Nhương chẳng hạn:
Em vừa đủ để anh khao khát
Vừa đủ làm cho anh thật là anh
Trời chớm thu vừa đủ nét xanh
Quả chua ấy cũng vừa đủ ngọt
Em vừa đủ để qua thời non nớt
Nét thục hiền vừa đủ chút đành hanh
Trong vững bền vừa đủ sự mong manh
Trong đằm thắm vừa đủ lòng nghi kỵ
Em đàn bà vừa đủ men thi sỹ
Em trang đài vừa đủ nét chân quê
Thích cộng vào vừa đủ biết đem chia
Lòng ngay thẳng vừa đủ mưu che đậy
Em già dặn vừa đủ điều non bấy
Em tươi vui vừa đủ nét ưu phiền
Em lạnh lùng vừa đủ để thôi miên
Em gìn giữ vừa  đủ lòng nổi loạn
Anh khao khát với trái tim lãng mạn
Mong suốt đời vừa đủ để yêu em.
Đó đều là những sự “vừa đủ” quá tuyệt vời cả.Tuy hình tượng trung tâm của một bài thơ là rất khác nhau, thiên biến vạn hóa. Nhưng chức năng của nó thì đều làm một việc: làm cột xương sống, làm sợi chỉ xuyên tâm để các câu thơ gắn bó lại với nhau thành bài thơ và mang một chủ đề hay nhiều chủ đề, do ý đồ sáng tác của nhà thơ quy định. Không có cái cột xương sống này, cái sợi chỉ xuyên tâm này thì các câu thơ sẽ rời vụn, các ý trong bài thơ sẽ hỗn loạn, loại trừ lẫn nhau. Chưa có thể gọi nó là bài thơ được. Chỉ có thể gọi nó là “bãi thơ” thôi !
                                            23/4/2011
Người đăng: LẶNG LẼ THƠ vào lúc 08:57 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

Vần và Tứ trong thơ- 18

Thứ sáu, 15/01/2016 | 7:07
NCL xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc cuốn "Vần và Tứ trong thơ" của nhà giáo- nhà thơ Đỗ Đình Tuân. Có thể coi đây là một cuốn cẩm nang hết sức cần thiết đối với những người yêu thơ và đang tập làm thơ.
THÊM MỘT CHÚT VỀ CÂU ĐỐI
Thấy dân làng mình vui câu đối quá, tôi vội vàng “ngâm cứu” vội mấy tài liệu về nghệ thuật câu đối trình làng để các bạn cùng tham khảo thêm và vận dụng khi tham gia trò chơi câu đối. Nghệ thuật câu đối thực chất là nghệ thuật chơi chữ. Da trắng vỗ bì bach là một kiểu chơi chữ quá ghê gớm. Bởi vì nó cùng một lúc lồng được cả hai phép chơi chữ: phép chơi chữ đồng nghĩa dị âm (da trắng với bì bạch) và phép đồng âm dị nghĩa (bì bạch - da trắng với bì bạch là tiếng vỗ da ).Phép đồng âm dị nghĩa có thể rõ hơn ở câu: Vợ cả, vợ hai, cả hai vợ đều là vợ cả. Vì thế tuy đã có rất nhiều người đối lại rồi,  nhưng hầu hết mới chỉ đối lại được một nửa (phép đồng nghĩa dị âm) còn khía cạnh tượng thanh của “bì bạch” ( tức là phép đồng âm dị nghĩa) thì chưa ai đối nổi cả. Chẳng hạn:Trời xanh mầu thiên thanh; Tay sơ sờ tí ti; Nhà vàng ngồi đường hoàng; Rừng sâu mưa lâm thâm… có người khen là chỉnh nhưng cũng chỉ đối được có một nửa thôi. Hơn nữa chữ “mưa” ở đây lại lơ lửng giữa danh từ và động từ cũng làm cho ý nghĩa của vế đối thêm mờ nhạt đi nhiều. Nghe vế ra của người ta hình thì nét như trưng trước mắt, mà tiếng thì đanh như rót vào tai, vế đối so làm sao được.
Ngoài phép chơi chữ lồng kiểu này (rất ít thấy) thì phổ biến là chơi chữ kiểu liên kết: Cây xương rồng, rồng (giồng, trồng) đất rắn, long vẫn hoàn long; Đến phố Mía, gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường; bà đồ Nứa đi võng đòn tre, đến khóm trúc thở dài hí hóp; Trời mưa đất thịt trơn như mỡ, dò (giò) đến hàng nem, chả muốn ăn…Cách nói lái: Chả lo gì, chỉ lo già; Nỏ cần chi, chỉ cần no; Cô gái Củ Chi, chỉ cu hỏi củ chi ?...
Theo quy mô thì phép đối được chia thành ba thể: Tiểu đối :mỗi vế có 4 chữ trở xuống. Đối thơ: mỗi vế có từ 5 đến 7chữ và đối phú có từ trên 7 chữ trở lên. Những câu đối  phú cũng được chia thành 3 kiểu câu. Nếu mỗi vế có từ 6 đến 9 chữ và do một mệnh đề tạo thành thì gọi là câu song quan. Nếu mỗi vế lại gồm 2 mệnh đề tạo thành thì gọi là câu cách cú. Nếu mỗi vế do 3 mệnh đề tạo thành thì gọi là câu hạc tất (gối hạc).
Trong phép tiểu đối và đối thơ thì yêu cầu chặt chẽ hơn. Phép đối thanh và phép đối từ loại phải được triệt để tôn trọng. Nhưng trong thực tế vẫn có sự linh hoạt nhất định.Chẳng hạn trong 7 chữ của thơ Đường luật thì chỉ bắt buộc các chữ 2,4,6 là phải đối thanh, còn các chữ ở các vị trí khác cho phép được linh hoạt:
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.
                     Thanh Quan
Bởi không linh hoạt vận dụng, cứ máy móc theo nguyên tắc thì nhiều khi vế đối lại thành ra ngớ ngẩn vô nghĩa. Trong giai thoại đã có một lần có người ra cho mấy cậu học trò một vế đối như sau: “Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc”. Các cậu học trò này cũng vừa được học qua về phép đối, họ bèn vận dụng những nguyên tắc đối theo kiểu lý sự như sau: Thần thì đối với thánh; nông thì đối với sâu; giáo thì đối với mác; dân thì đối với quan; nghệ thì đối với gừng; ngũ thì đối với tam; cốc thì đối với cò. Sau đó họ ghép các chữ lại và được một vế đối lại như sau:
-Vế ra: Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc
-Vế đối:Thánh sâu mác quan gừng tam cò.
Không ngờ sự vận dụng máy móc nguyên tắc lại làm hỏng câu đối. Nhưng vận dụng cũng không có nghĩa là vô nguyên tắc. Mà sự vận dụng đều phải có mức độ cho phép của nó. Chẳng hạn về đối thanh: Đúng ra là phải thanh bằng đối với thanh trắc. Nhưng rất nhiều trường hợp cụ thể lại không thể làm nổi cho nên người ta chỉ bắt buộc một số chữ làm chốt là phải bằng đối với trắc. Đó thường là những chữ cuối phân câu, hoặc cuối câu:
Tối ba mươi, nghe pháo nổ đùng, ờ..ờ …tết
Sáng mồng một, va nêu đánh cộc, á… à.. xuân
                                            Nguyễn Khuyến
Nhưng các chữ khác trong cụm từ vẫn phải có sự đối thanh ở mức tương đối thì nghe mới xuôi tai. Nếu cùng là thanh bằng thì nên lấy thanh không đối với thanh huyền, nếu là thanh trắc thì nên lấy thanh hỏi đối với thanh ngã, thanh sắc đối với thanh nặng. Nghĩa là nên lấy một thanh nổi đối với một thanh chìm và ngược lại.
Về từ loại cũng vậy, nguyên tắc là phải danh đối với danh, động đối với động, tính đối với tính, số từ đối với số từ, thực từ đối với thực từ, hư từ đối với hư từ…Nhưng trong tiếng việt vị trí trong câu, hoặc trong một văn cảnh cụ thể nào đó, nhiều khi cũng làm làm thay đổi từ loại của từ. Cho nên xem xét từ loại cũng phải xem xét trong văn cảnh cụ thể chứ không nhất thiết theo như từ điển được. Và cuối cùng vẫn phải dẫn đến một ý nghĩa hoặc tương đồng, hoặc tương phản với vế ra.
Trong một cặp câu đối do một người làm ra thì nhất thiết phải có một vế kết thúc bằng thành trắc và vế kia kết thúc bằng thanh bằng. Nếu vế đối do một người ra thách đối kết thúc là thanh bằng thì tất cả những vế đối lại bắt buộc phải kết thưc bằng thanh trắc. Chẳng hạn về thách đối của Đỗ Đình Tuân:
-Tết /  túng / tiền / tiêu / tìm / tớn tác
Vế đối này kết thúc là thanh trắc thì các vế đối lại nhất thiết phải kết thúc bằng thanh bằng. Một điều nữa là đây thuộc loại câu đối thơ nêu yêu cầu độ chỉnh phải cao.  Muốn đối được chỉnh vế này ta phải đem phân tích 7 âm tiết này gồm 6 từ: Tết / túng / tiền / tiêu / tìm / tớn tác. Trong 6 từ này có 2 danh từ (tết và tiền) 2  động từ ( tiêu và tìm) 1 tính từ đơn ( túng) 1 tính từ kép (tớn tác).Những vế đối sau đây được xem là chỉnh:
-Chị / chưa / chồng /chửa / chửi / chanh chua
                                          Minh Hương
-Nhà / nhiều / nho /  nhũn / nhá / nhôi nhai
-Đường / đầy / điếm / đón / đứng / đong đưa
                                     Vũ Thị Song Thu
Dân xóm đang rất tích cực tham gia dự đối vui. Nhưng các vế đối ra quá khó, tính văn nghệ lại chưa cao nên đọc chưa thú mấy. Xin chúc dân xóm mình từ nay đến tết sẽ nghĩ ra được nhiều câu đối vừa hay, vừa chỉnh.Tiện đây tôi cũng xin ra một vế đối mong mọi người cùng tập dượt góp vui: Tết tung tăng, xuân xúng xính, hội hè...sum họp...
ĐỖ ĐÌNH TUÂN
Người đăng: LẶNG LẼ THƠ vào lúc 08:09 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest

Thứ Năm, 14 tháng 1, 2016

Vài nhận xét về một tập thơ Đường luật định xuất bản



Thứ Hai, ngày 21 tháng 12 năm 2015
           
            Lời bạch: Có một tác giả nọ, cũng vào hạng có tên tuổi của một CLB to muốn xuất bản một tập thơ Đường Luật. Họ nhờ tôi cho ý kiến. Quan hệ giữa tôi và tác giả cũng là chỗ quen biết gần gũi nên không thể từ chối. Mà muốn có ý kiến để “cho” được thì phải đọc cả, đọc kỹ, phải phân tích, mổ xẻ. Sau đây là những ý kiến thành thật của tôi về tập thơ này. Vì đã từ dăm sáu năm nay tôi không tham gia sinh hoạt CLB . Và cũng từ lâu không đọc thơ của tác giả này, nay đọc lại không thấy “lên tay” mà cứ tầm tầm như thơ CLB cả thôi. Vì thế,  tuy rất muốn khen nhưng cũng đành phải chê vậy.Ngoài mục đích để cho tác giả và những người như tác giả chưa hiểu rõ lắm về  hồn cốt và logic bên trong của những câu thơ Đường có thêm tài liệu tham khảo, tự rút kinh nghiệm mà viết chắc tay hơn khi làm thơ Đường Luật, tôi chả có mục đích nào khác. Nhưng làm thơ dở, thơ nhạt, thơ chưa hay hoặc chưa chắc tay…gì thì gì cũng chỉ là một non yếu thôi chứ không phải là tội lỗi. Tôi dấu tên tập thơ và tên tác giả lý do là như vậy.

Về ưu điểm tập thơ này không còn những vi phạm về niêm, về đối cũng ít thấy gò vần ép chữ. Nhìn chung là sạch nước cản. Nhược điểm lớn nhất của tập thơ là ít bám sát chủ đề, chưa nắm vững được chức năng của các câu thơ trong thơ  Đường luật, nên cấu trúc bài thơ thường lỏng lẻo, ý tứ bị tản loãng, chủ đề không rõ, nên không để lại được ấn tượng cho người đọc.
Chẳng hạn  ngay ở bài đầu tiên: Ơn Thầy:
Đường đời thật lắm nối chông gai
Bể khổ chúng sinh lặn ngụp hoài
Phước đủ có thầy tu đắc đạo
Duyên lành đọng lại phúc như lai
Trả vay nhân quả tùy nhiều ít
Ân oán nghiệp duyên có ngắn dài
Như lý con thường xuyên tác ý
Ngưỡng mong sáng sủa hướng tương lai.
Với một cái tựa đề là ƠN THÀY thì hướng khai thác tự nhiên phải nói đến công lao của một ông thày cụ thể nào đó trong một lĩnh vực cụ thế nào đó. Công lao ấy đã giúp cho đời, hoặc cho mình được điều gì mà mọi người hoặc bản thân mình còn mãi ghi ơn ?
Nhưng ở hai câu đề lại nêu ra vấn đề khác chứ không phải là “Ơn thày”. Đó là cuộc sống đau khổ trầm luân trong bể khổ của chúng sinh. Đến lượt hai câu thực đáng lẽ phải nói cụ thể cái “ơn của thày” là những gì, thì hai câu thơ ấy lại đi bình luận về sự may mắn, nhờ có “phước đủ” “duyên lành” mà tu hành đắc đạo, của một “thầy” rất chung chung chẳng biết rõ là ai  ? Đến hai câu luận cũng vậy, đáng lẽ phải bình luận đánh giá về cái “Ơn thày”. Thì câu thơ lại nêu ra một lý thuyết rất chung chung của nhà Phật Đó là thuyết nhân quả:
Trả vay nhân quả tùy nhiều ít
Ân oán nghiệp duyên có ngắn dài..
Đến hai câu kết thì tác giả cũng chạy làng luôn cả cái ơn thày. Tác giả sẽ theo những lý thuyết của nhà Phật để mong tìm một tương lai sáng sủa:
Như lý con thường xuyên tác ý
Ngưỡng mong sáng sủa hướng tương lai.
Nói tóm lại là giữa tựa đề với bài thơ, và giữa những câu thơ trong bài với nhau chẳng có gì là gắn bó tự nhiên cả. Đó là những câu thơ đứng cạnh nhau rất tùy tiện. Bài thơ thành đầu Ngô mình Sở chả nói lên được điều cần nói. Vì người viết chưa nói được điều mình muốn nói thì người đọc cũng đành phải “bó tay chấm com” vậy.
Trong thơ Đương Luật cũng còn một lốí kết cấu khá phổ biến nữa là “Tiền giải-hậu giải”. Trong lối kết cấu này bài thơ thường chia ra thành hai phần: 4 câu đầu gọi là phần “Tiền giải” thường là tả cảnh, 4 câu sau gọi là “Hậu giải” thường bộc lộ tâm trạng của nhà thơ. Chẳng hạn như như bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan:
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân ngoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Ở bài này,trên đại thể ta có thể xem 4 câu đầu là cảnh Đèo Ngang, còn 4 câu sau là tâm trạng tác giả. Nhưng cấu trúc của bài thơ vẫn rất tự nhiên và chặt chẽ. Các câu thơ vẫn gắn bó với nhau để tạo ra một bức tranh tổng thể trong một khoảnh khắc nhất định, rất cụ thể của Đèo Ngang, trước con mắt của tác giả. Ở đây 4 chữ đầu câu 1 “Bước tới Đèo Ngang”có thể xem là thay cho những câu Đề. Từ 3 chữ cuối câu đầu đến hết câu 4 làm chức phận của hai câu thực. Hai câu 5 và 6  có thể xem là hai câu luận “ Phong cảnh đẹp vậy nhưng sao lại gợi thương gợi nhớ thế, ta không sao cầm lòng được”. Hai câu cuối vẫn làm nhiệm vụ gói bức tranh lại bằng một cái nhìn toàn cảnh khi bước tới đỉnh đèo “Dừng chân ngoảnh lại trời non nước” thật là bao la và bát ngát mông lung… Trước toàn cảnh bao la bát ngát ấy tác giả càng cảm thấy mình thêm cô đơn hiu quạnh. Câu cuối bài thơ cũng là câu thơ gói lại phần tâm trạng.
Khi làm thơ Đường luật ta có thể theo lối kết cấu “Đề - Thực - Luận - Kết”. Cũng có thể theo lối “Tiền giải – Hậu giải” hoặc sáng tạo ra một kiểu kết cấu nào khác hoàn toàn mới mẻ…Nhưng dù thế nào thì những câu thơ vẫn cứ phải gắn bó với nhau một cách tự nhiên. Và mỗi chữ, mỗi câu đều phải chung vai gánh vác một phần trách nhiệm trong việc chuyển tải một chủ đề nhất định, một thông điệp nhất định vào tâm trí người đọc.
Ngay cả ở những bài kha khá trong tập, thì cấu trúc vẫn cứ  lỏng lẻo, chưa thật là ăn khớp với nhau. Chẳng hạn như bài Mảnh đời cơ nhỡ:
Cháu bê chồng báo đẫm hơi sương
Dấn bước chân đo khắp phố phường
Mời chú xem đây tin thế giới
Mong cô đọc đó chuyện đời thường
Vai gầy phiêu bạt bao hè phố
Áo mỏng lang thang mấy đoạn đường.
Miêu tả như thế này thì làm sao rõ ra được cái sự “cơ nhỡ” của em bé ? Lẽ ra nó phải có hai câu đề làm nhiệm vụ giới thiệu hoàn cảnh của em bé, do bị bỏ rơi hay mồ côi cha mẹ mà phải tự kiếm sống bằng nghề bán báo này. Và đáng lẽ hai câu 5 và 6 phải để ở vị trí hai câu thực thì tình cảnh “cơ nhỡ” mới rõ ra được. Rất tiếc là ở hai câu thực trong bài này lại bị để ngồi nhầm chỗ. Còn vị trí của nó thì lại bị hai câu thơ chả có gì gọi là “cơ nhỡ”chen vào. Câu 3 và câu 4 của bài thơ này chỉ miêu tả một em bé bán báo rất bình thường, không có gì là “cơ nhõ” cả:
Mời chú xem đây tin thế giới
Mong cô đọc đó chuyện đời thường.
Mà hai câu thơ này thì chả có gì là hay ho. Nó chỉ làm được mỗi nhiệm vụ là tranh mất chỗ của hai câu thực đáng ra phải có “Vai gầy phiêu bạt bao hè phố; Áo mỏng lang thang mấy đoạn đường”
Đến hai câu kết:
Thăm thẳm biển khơi trong ánh mắt
Mong đời ban phát chút yêu thương
Thì em bé bán báo lại giống hệt như một em bé ăn xin rất tội nghiệp. Thực ra nếu biết cấu trúc bài thơ thì 4 câu thơ cuối bài này có thể trở thành những câu thơ rất hay. Nhưng vì đặt không đúng chỗ trong một cấu trúc lỏng lẻo nên hiệu quả của nó chẳng còn là mấy…
 Những bài có luận đề xã hội thì quá xu thời. Chẳng hạn như bài Di chúc Bác Hồ sau đây:
Di chúc thiêng liêng tỏa sáng ngời
Việt Nam đổi mới khắp nơi nơi
Chiến tranh tăm tối đâu còn nữa
Nghèo khó khổ đau đã hết rồi
Xã hội phồn vinh ươm lộc biếc
Gia đình hạnh phúc nẩy chồi tươi
Vinh quang có Đảng trao lời Bác
Nước mạnh dân giầu sống thành thơi.
Đúng là so với thời chiến tranh và thời bao cấp, thì đời sống của đại bộ phận nhân dân đã được cải thiện một bước đáng kể. Tuy nhiên sau 40 năm chiến tranh chấm dứt và 30 năm đổi mới, khoảng thời gian ấy cũng không còn là ít nữa. Với nhiều nước Châu Á khác thì đã đủ để họ “hóa rồng”. Nhưng ở Việt Nam ta tình hình ngược lại. So với nhiều nước lân bang kinh tế xã hội  nước ta ngày càng tụt hậu. Hiệu quả đầu tư thấp, năng suất lao động và sức cạnh tranh…đều kém. Các nguy cơ và tệ nạn càng ngày càng lộ rõ: tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng, tham nhũng hối lộ tràn lan, khoảng cách giầu nghèo nới rộng, bất công xã hội gia tăng…văn hóa giáo dục và đạo đức xã hội đều xuống cấp, rồi nguy cơ lệ thuộc nước ngoài, mất dần biển đảo.v…v…Vì thế mà lòng người cũng nhiều bất an, trăn trở…Hiện thực ấy với những chúng sinh đang phải “ngụp lặn hoài” làm sao mà chẳng biết. Ấy vậy nhưng khi làm thơ thì lại bỏ qua hết. Lại toàn dùng những từ ngữ tuyệt vời nhất để ngợi ca. Nào là “Xã hội phồn vinh”, “Gia đình hạnh phúc”, “nước mạnh dân giầu”, “sống thảnh thơi” …? Không có cách nào hiểu khác hơn đây chỉ là những câu thơ dối lòng, xu thời, nịnh đời, nịnh Đảng. Bằng chứng là, ở một nơi khác, cũng ngay trong tập thơ này, tác giả có một bài Cầu mưa. Nội dung đại khái của bài thơ ấy là cầu mong Thượng Đế hãy cho hạ giới một trận mưa có phép mầu để quét sạch bọn tham quan ở dưới này đi…?
Bên cạnh nhiều bài thơ còn bất cập như thế, tập thơ vẫn rải rác những câu thơ hay, thậm chỉ cả những bài thơ thật hay, thật đẹp đến không ngờ. Chẳng hạn như bài Gót độc hành dưới đây:
Thấp thoáng kìa ai gót độc hành
Bồng bềnh suối tóc thoảng hương chanh
Đào vừa e ấp thua làn thắm
Liễu đã thẹn thùng kém nét thanh
Đường rộng thênh thang làn gió mát
Trời quang bát ngát ánh trăng lành
Tứ thơ bắt gặp hồn nhiên quá
Thấp thoáng kìa ai gót độc hành.
Thực ra thì ở bài thơ này tác giả vẫn làm theo cái tạng của mình, không Đề - Thực – Luận – Kết gì hết. Nhưng bức tranh mà bài thơ vẽ ra lại rất tự nhiên, sinh động và đẹp đến mê hồn. Hình như đây là một cô gái đang đi bộ thể dục buổi sớm thì phải ? Nàng thoăn thoắt gót chân độc hành và buông một mái tóc thơm bay trước gió. Chỉ vài nét phác thảo vậy thôi mà “người đẹp” đã hiện ra làm ngơ ngác cả đường cây hoa cỏ, nhất là nó làm ngơ ngác những cặp mắt tình cờ chợt thấy:
Tứ thơ bắt gặp hồn nhiên quá
Thấp thoáng kìa ai gót độc hành.
Câu thơ đúng là một tiếng kêu sửng sốt, sửng sốt trước một vẻ đẹp không ngờ. Ở đây dường như tất cả các yếu tố ngôn ngữ, hình ảnh, vần điệu…đến cả cái thể thơ thủ vĩ ngâm đều đã kết hợp với nhau một cách  hài hòa để cùng tôn vinh “người đẹp”. Có lẽ cũng nhờ thế mà “người đẹp” đã gây cảm hứng và để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc chăng ?
Đọc xong tập thơ này tự nhiên tôi nảy ra một câu tự hỏi mình: Tại sao lại có tình trạng có những người đã từng viết được những bài thơ rất hay như thế lại vẫn cứ viết rất nhiều những bài thơ quá bình thường và nhạt nhẽo ? Có  lẽ  là vì cái công việc làm thơ không thể “theo đàn” được. Lối chơi thơ xướng họa tràn lan, một người xướng , bốn năm chục người họa, rất dễ tạo ra kiểu “làm thơ theo đàn” này. Bởi vì tất cả đều nương theo cùng một vần, nói cùng về một đề tài,  làm theo cùng một thể loại…thì tất yêu dẫn đến tình trạng ra đời cùng một loại sản phẩm thơ trứng gà trứng vịt, anh em cùng nhà của một cặp vợ chồng nghèo túng nhưng mắn đẻ ?

                                                       20/12/2015
                                                     Đỗ Đình Tuân

Người đăng: LẶNG LẼ THƠ vào lúc 18:21 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Bài đăng mới hơn Bài đăng cũ hơn Trang chủ
Đăng ký: Bài đăng (Atom)
  • ĐĂNG BÀI MƠI

Giới thiệu về tôi

LẶNG LẼ THƠ
Đêm nay xuân-hạ chuyển giao mùa
Đang tiết đầu rào chẳng thấy mưa
Mây mỏng màn trời hơi rét nhẹ
Chim kêu ngoài dậu hạt sương thưa
Non tây chênh chếch vầng trăng lặn
Vườn trước lao xao ngọn gió lùa
Đẫy giấc ai ngồi thao thức đợi
Âm thầm đuổi bắt một câu thơ.
Xem hồ sơ hoàn chỉnh của tôi

Search this site

TỪ ĐIỂN ANH VIỆT

Dictionary:
Enter word:
© Cftanhiep Groups 2009

Lưu trữ Blog

  • ▼  2016 (30)
    • ►  tháng 7 (1)
    • ►  tháng 6 (3)
    • ►  tháng 5 (11)
    • ▼  tháng 1 (15)
      • Nguyễn Công Trứ chơi câu đối tết
      • Vài ý về trò chơi câu đối
      • Vần và Tứ trong thơ- 19
      • Cảm hứng gia đình trong ca dao xưa
      • MỘT KỶ NIỆM THOÁNG QUA...
      • MẤY NGẪM NGHĨ VỀ CẤU TRÚC MỘT BÀI THƠ
      • Vần và Tứ trong thơ- 18
      • Vài nhận xét về một tập thơ Đường luật định xuất bản
      • ĐỂ ĐỐI CHỈNH
      • “TẾT VÀ XUÂN TRONG THƠ MỚI”
      • Bàn thêm về bốn chữ “Bắc môn tỏa thược” (北門鎖鑰)
      • Mấy câu đối chơi trò chiết tự bằng chữ Hán
      • Một bài văn của Lượng
      • Hồn người trong thi ca
      • THANH VÀ TỤC TRONG VĂN CHƯƠNG

Người theo dõi

Chủ đề Đơn giản. Được tạo bởi Blogger.